TIỂU SỬ NHÀ YÊU NƯỚC - LÃNH TỤ NGHĨA QUÂN - NHÀ GIÁO NGUYỄN HỮU HUÂN
Nguyễn Hữu Huân, quê quán làng Mỹ Tịnh An, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường; nay là xã Hoà Tịnh, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.
Thuở nhỏ ông rất thông minh và học giỏi. Năm 1852 (triều Tự Đức), ông dự thi Hương (kỳ thi xác định học vị Cử nhân) và đỗ đầu, nên được gọi là Thủ Khoa Huân. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm Giáo thụ huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường.
Khi Pháp xâm lược ba tinh miền Đông Nam kỳ (trong đó có tỉnh Định Tường quê ông), cũng giống như nhiều nhà nho yêu nước ở Nam kỳ, ông đã từ bỏ dạy học, cầm vũ khí đứng lên chống Pháp (năm 1860).
Năm 1861, ông cùng nghĩa quân hoạt động trên địa bàn từ Tân An đến Mỹ Tho. Đầu năm 1862, bị Pháp đánh úp, bắt và giải ông về Sài Gòn. Lựa lúc đối phương sơ hở, ông trốn thoát được. Đầu năm sau, ông cùng Võ Duy Dương chiêu mộ nghĩa binh để khởi nghĩa lần thứ hai.
Tháng 6 năm 1863, lúc ban đêm Pháp bất ngờ đem quân càn quét căn cứ Thuộc Nhiêu (Cai Lậy , Định Tường), ông chuyển về vùng Thất Sơn, An Giang tiếp tục đấu tranh. Pháp rất lo ngại nên gửi tối hậu thư, buộc Tổng đốc An Giang là Phan Khắc Thân phải giao nộp Thủ Khoa Huân cho họ làm tội, viện lẽ ông Huân không tuân theo hoà ước 1862. Án sát Phạm Hoàng Đạo hay tin tâu lên vua Tự Đức, xin đưa ngay Nguyễn Hữu Huân về Huế. Thế nhưng do áp lực của người Pháp, tháng 7 năm 1864, Tổng đốc Thân đã phớt lờ lệnh vua, bắt ông giao nộp cho thực dân .
Vợ Thủ Khoa Huân là Lê Thị Lộc đã làm đơn kiện viên quan đầu tỉnh An Giang về việc đã không tuân theo chiếu chỉ, đồng thời đòi Pháp phải thả ngay chồng mình. Ở Sài Gòn, dù Pháp đem mọi thứ ra dụ dỗ nhưng ông vẫn kiên quyết chối từ. Cuối cùng, vào ngày 22 tháng 8 năm 1864, ông bị kết án 10 năm tù khổ sai và bị đày đi Cayenne, là một thuộc địa của Pháp ở Nam Mỹ.
Về sự việc này, Định Tường Thủ Khoa Huân tiểu truyện có đoạn: Năm Giáp Tý, chính quyền Pháp kết án Nguyễn Hữu Huân mười năm khổ sai, đày ra biển cả ở Nam Mỹ châu, tục gọi Cai Danh (tức Cayenne, thuộc Guyane). Trong Hồ sơ cá nhân Đỗ Hữu Phương cũng cho biết tương tự: Thủ Khoa Huân, dính líu trong một vụ phiến loạn, từng bị đày đi Cayenne.
Sau 5 năm tù, ngày 4 tháng 2 năm 1869, Pháp cho lệnh ân xá và đưa ông về quản thúc tại nhà Tổng đốc Đỗ Hữu Phương, đồng thời cử ông làm giáo thọ dạy bảo "sinh đồ" ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía họ. Nguyễn Hữu Huân lợi dụng điều kiện đi dạy học, liên lạc với các sĩ phu yêu nước và hội kín Hoa kiều Trường Phát, nhờ mua vũ khí để chuẩn bị khởi nghĩa.
Trong khi cuộc khởi nghĩa đang được chuẩn bị khẩn trương, nhờ do thám nên Pháp bắt được thuyền chở vũ khí. Trước tình hình bất lợi đó, ông ra lệnh giải tán, bí mật tìm đường về lại Mỹ Tho họp cùng Âu Dương Lân tiến hành khởi nghĩa lần thứ 3. Lần này dân chúng theo ông rất đông,trong số đó có cả một số hương chức, hội tề, địa chủ... địa bàn kháng chiến của ông kéo dài từ Mỹ Tho đến Mỹ Quý -Cai Lậy.
Đầu năm 1875, thất trận ở Bình Cách, Thủ Khoa cùng tùy tùng là Đốc binh Hương về Chợ Gạo, dự định quá giang thuyền buôn ra Bình Thuận cầu viện. Nhưng đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc, đã dẫn quân bắt Nguyễn Hữu Huân ở Chợ Gạo ngày 15 tháng 05 năm 1875, rồi đem giam ông tại Mỹ Tho.
Sau bốn ngày dùng mọi mưu chước chiêu hàng không thành, Pháp kết án tử hình Nguyễn Hữu Huân. Trước khi thụ hình, ông nhắn vợ con tế sống mình trong một tuần và xin vải viết bài thơ tuyệt mệnh và hai câu đối để thờ.
Ngày 19 tháng 5 năm 1875 (âm lịch: 14 tháng 4 năm Ất Hợi), Pháp cho tàu chở ông xuôi theo dòng Bảo Định về Mỹ Tịnh An và hành quyết lúc 12 giờ trưa. Năm ấy ông 45 tuổi.
Tác phẩm:
Không rõ Thủ Khoa Huân có làm nhiều thơ hay không, nhưng với những bài còn lại, bài nào cũng bộc lộ được tinh thần bất khuất, kiên cường, dám xả thân vì nước Việt của ông.
Cho nên, Nguyễn Hữu Huân được ghi nhận là "một hiện tượng đặc sắc của văn học yêu nước thế kỷ 19 của Việt Nam: hiện tượng nhà thơ - chiến sĩ."
Hai câu đối do Nguyễn Hữu Huân làm trước khi bị thụ hình, hiện được treo trang trọng tại bàn thờ của ông.
Hữu chí nan thân, không uổng bách niên chiêu vật nghị,
Tuy công bất tựu, diệc tương nhất tử báo quân ân.
Tạm dịch:
Có chí khôn bày, không uổng trăm năm lời nghị chúng
Tuy công chưa thành, cũng đành một thác báo ơn vua..
Bài thơ chữ Hán dưới đây, ông làm trước khi bị chém, nay được tạc nơi bia mộ ông. Sau đây là bản dịch của Phan Bội Châu:
Ruổi dong vó ngựa trả thù chung Hai bên thiên hạ thấy hay không?
Binh bại cho nên mạng phải cùng. Một gánh cương thường, há phải gông.
Tiết nghĩa vẫn lưu cùng vũ trụ, Oằn oại hai vai quân tử trúc,
Hơn thua xá kể với anh hùng. Long lay một cổ trượng phu tòng.
Nổi xung mất vía quân Hồ lỗ Sống về đất Bắc, danh còn rạng
Quyết thác không hàng, rạng núi sông. Thác ở thành Nam, tiếng bỏ không
Tho thuỷ ngày rày pha máu đỏ, Thắng bại, doanh thâu trời khiến chịu
Đảo Rồng hiu hắt ngọn thu phong. “Phản thần”,“đéo ỏa” đứa cười ông!